1. Tội cưỡng dâm theo luật hình sự trước đây
Việt Nam kể từ khi Bộ luật hình sự năm 1985 có hiệu lực. Trước đó, trong Sắc luật số 03 năm 1976, hành vi cưỡng dâm chưa được quy định là một tội danh độc lập mà được quy định chung là “Các tội khác xâm phạm thân thể và nhân phẩm của công dân…
Trong Bộ luật hình sự năm 1999, có hai tội danh liên quan đến hành vi cưỡng dâm. Đó là tội cưỡng dâm (Điều 113) và tội cưỡng dâm trẻ em (từ 13 đến dưới 16 tuổi; Điều 114). Hai tội này chỉ khác nhau về độ tuổi của nạn nhân, nhưng chính sự khác nhau này làm cho tính nguy hiểm của ha trường hợp này khác nhau. Trong Bộ luật hình sự năm 1985 khi mới ban hành chỉ có một tội danh chung là cưỡng dâm. Việc tách thành hai tội kể từ lần sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự vào năm 1997 một mặt thể hiện sự phân hoá trách nhiệm hình sự trong luật, mặt khác cũng thể hiện chính sách hình sự của Nhà nước trong việc trừng trị nghiêm khắc hơn hành vi xâm phạm đến trẻ em. Hình phạt cho tội cưỡng dâm có thể tới 18 năm tù; còn hình phạt cao nhất cho tội cưỡng dâm trẻ em có thể là tù chung thân.
Tội cưỡng dâm, theo Luật hình sự Việt Nam hiện hành được hiểu là hành vi ép buộc người (phụ nữ) lệ thuộc mình hoặc người (phụ nữ) đang ở trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng chịu giao cấu với mình. Như vậy, tội cưỡng dâm theo Luật hình sự Việt Nam đã được giới hạn hơn so với hành vị cưỡng dâm nói chung. Chủ thể của tội cưỡng dâm chỉ có thể là nam giới và nạn nhân của tội này chỉ có thể là phụ nữ và họ là người lệ thuộc vào kẻ phạm tội hoặc là người đang trong tình trạng quẫn bách. Quan hệ lệ thuộc ở đây có thể là trong phạm vi công tác, gia đình, tín ngưỡng… Đang ở trong tình trạng quẫn bách là đang ở trong hoàn cảnh hết sức khó khăn không thể hoặc khó có thể tự khắc phục được. Kẻ phạm tội cưỡng dâm đã lợi dụng quan hệ lệ thuộc hoặc tình trạng quẫn bách ép buộc nạn nhân bằng thủ đoạn đe doạ hoặc hứa hẹn để họ phải miễn cưỡng chịu giao cấu.
Tội cưỡng dâm được quy định là hành vi ép buộc người lệ thuộc mình hoặc người đang ở trong tĩnh trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác.
2.1 Dấu hiệu mặt khách quan của tội cưỡng dâm
Hành vi khách quan của tội phạm này được quy định là hành vi “khiến” (ép buộc) và hành vi giao cấu hoặc hành vi quan hệ tình dục khác. Trong đó, hành vỉ giao cấu hoặc hành vi quan hệ tình dục khác là kết quả của hành vi “khiến” (ép buộc).
Ở đây cần chú ý: Hành vi đe dọa ở tội cưỡng dâm chưa đến mức làm người bị đe dọa tê liệt ý chí, không dám kháng cự như ở tội hiếp dâm. Người bị đe dọa chỉ bị khống chế tư tưởng; họ vẫn có khả năng phản kháng nhưng đã (miễn cưỡng) chịu giao cấu hoậc chịu thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác.
Người phạm tội cưỡng dâm cũng có thể lợi dụng quan hệ lệ thuộc, lợi dụng uy thế của mình hoặc lợi dụng nạn nhân đang trong tình trạng quẫn bách hứa hẹn mang lại quyền lợi nào đó cho họ nếu chấp nhận việc giao cấu hoặc chấp nhận thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác. Vỉ dụ: Hứa sẽ cho chuyển nơi làm việc…
Ở đây cũng cần chú ý: Sự hứa hẹn phải có tính chất là sự khống chế tư tưởng buộc họ phải miễn cưỡng chấp nhận việc giao cấu hoặc chấp nhận thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác. Những trường hợp hứa hẹn khảc không thuộc phạm vi của tội phạm này.
2.2 Dấu hiệu mặt chủ quan của tội cưỡng dâm
Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý.
Người phạm tội biết nạn nhân là người lệ thuộc mình hoặc biết họ là người đang trong tình trạng quẫn bách. Người phạm tội cũng biết hành vi đe dọa hay hứa hẹn cùa minh là hành vi lợi dụng quan hệ lệ thuộc hoặc là hành vi lợi dụng tình trạng quẫn bách của nạn nhân để buộc họ phải miễn cưỡng cho giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác.
2.3 Chủ thể của tội cưỡng dâm
Chủ thể của tội cưỡng dâm là bất kì người nào có năng lực trách nhiệm hình sự, đồng thời phải có mối quan hệ lệ thuộc với người bị hại hoặc có quan hệ nhất định trong việc giúp đỡ người bị hại thoát khỏi tình trạng quẫn bách.
2.4 Hình phạt đối với tội cưỡng dâm
Điều luật quy định 03 khung hình phạt chính, trong đó:
– (Người phạm tội) biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội (thực hiện hành vi giao cấu hoặc hành vi quan hệ tình dục khác);
– (Phạm tội) làm nạn nhân chết hoặc tự sát.
Khung hình phạt bổ sung được quy định (có thể được áp dụng) là: cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
3. Các dấu hiệu của tội Cưỡng dâm
3.1 Về phía người phạm tội:
Đối với tội cưỡng dâm, hành vi giao cấu với nạn nhân không chỉ là dấu hiệu khách quan của cấu thành mà nó là dấu hiệu bắt buộc (dấu hiệu cần và đủ). Nếu các dấu hiệu khác đã thoả mãn nhưng chưa có việc giao cấu xảy ra, thì chưa cấu thành tội phạm. Vì vậy đối với tội cưỡng dâm, không có giai đoạn phạm tội chưa đạt. dich vu doi no, dịch vụ đòi nợ
3.2 Về phía người bị hại:
4. Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi
Theo điều 144, Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, quy định về tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi:
1. Người nào dùng mọi thủ đoạn khiến người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi đang ở trong tình trạng lệ thuộc mình hoặc trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Có tính chất loạn luân;
b) Làm nạn nhân có thai;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
d) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45%;
đ) Phạm tội 02 lần trở lên;
e) Đối với 02 người trở lên;
g) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Nhiều người cưỡng dâm một người;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
c) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở lên;
d) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;
đ) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
So với tội cưỡng dâm, tội phạm này chỉ có điểm khác về độ tuổi cùa nạn nhân. Nạn nhân của tội phạm này là người có độ tuổi từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Như vậy, có thể coi tội phạm này là một trường hợp tăng nặng trách nhiệm hình sự đặc biệt của tội cưỡng dâm.
Về hình phạt, điều luật quy định 3 khung hình phạt chính với các mức đều cao hon so với tội cưỡng dâm. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng cũng tưong tự như các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng được quy định cho tội cưỡng dâm.
5. Phân tích về tội cưỡng dâm
* Mặt khách quan: Mặt khách quan của tội này gồm có các dấu hiệu sau đây
Về hành vi: Có hành vi giao cấu trẻ em là người bị lệ thuộc hoặc cần sự giúp đỡ bằng việc sử dụng thủ đoạn như dụ dỗ, mua chuộc, đe dọa ….
Dấu hiệu khác : Trẻ em bị hại phải có mối quan hệ lệ thuộc voeis người phạm tội. Được hiểu là mối quan hệ lệ thuộc về nhiều mặt như : về vật chất (được nuôi dưỡng, được trợ giúp các điều kiện sinh sống, được chăm sóc….), về xã hội (giữa giáo viên với học sinh, giữa bác sĩ với bệnh nhân ), về tín ngưỡng (giữa tín đồ với nhiều chức sắc tôn giáo); về gia đình (giữa anh chị em cùng cha khác mẹ…).
Nhìn chung các dấu hiệu của mặt khách của tội này giống với tội cưỡng dâm nhưng chỉ khác đối tượng nạn nhân là trẻ em.
+ Tội phạm hoàn thành từ lúc trẻ em giao cấu với người phạm tội.
+ Trẻ em bị hại là người chưa thành niên từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
+ Việc đe dọa không phải là đe dọa bằng vũ lực.
* Khách thể: Hành vi nêu trên xâm phạm đến quyền được tôn trọng, bảo vệ về thân thể, nhân phẩm, danh dự của trẻ em, xâm phạm đến sức khỏe, sự phát triển bình thường của trẻ em.
* Mặt chủ quan: Người phạm tội cưỡng dâm trẻ em thực hiện tội phạm này với lỗi cố ý.
* Chủ thể: Chủ thể của tội cưỡng dâm trẻ em là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự. Đồng thời phải có quan hệ lệ thuộc với trẻ em hoặc có quan hệ nhất định trong việc giúp đỡ trẻ em thoát khỏi tình trạng quẫn bách.