1. Tội xâm phạm chỗ ở của người khác
Hiện nay, tội xâm phạm chỗ ở của người khác được quy định tại điều 158 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, cụ thể:
Tội xâm phạm chỗ ở của người khác là hành vi khám xét trái pháp luật chỗ ở của người khác, đuổi trái pháp luật người khác khỏi chỗ ở của họ hoặc có những hành vi trái pháp luật khác xâm phạm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của người khác.
Tội xâm phạm chỗ ở của công dân là hành vi khám trái pháp luật chỗ ở, đuổi trái pháp luật người khác ra khỏi chỗ ở của họ hoặc có những hành vi trái pháp luật khác xâm phạm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của công dân.
Mặt dù điều văn của điều luật nêu ba loại hành vi ( khám, đuổi hoặc hành vi khác), nhưng các hành vi này đều được gọi chung là hành vi xâm phạm, nên dù người phạm tội thực hiện một hoặc cả ba hành vi trên thì cũng chỉ định tội là “xâm phạm chỗ ở của công dân”.
2. Dấu hiệu của tội xâm phạm chỗ ở
+ Dấu hiệu đối tượng tác động của tội phạm:
Đối tượng tác động của tội phạm này là chỗ ở của người khác. Chỗ ở của người khác được hiểu là nơi ở hợp pháp thường xuyên hoặc tạm trú, cố định hoặc di động. Nếu nơi ở hợp pháp đó là nhà thì có thể là toà nhà nhiều tầng, nhưng cũng có thể chỉ là căn hộ, thậm chí chỉ là một phần của căn hộ hoặc cản trở trái phép, không cho người đang ở hoặc quản lý hợp pháp chỗ ở được vào chỗ ở của họ: Đây là dạng hành vi khác ngoài hai dạng hành vi đã phân tích ở trên, nhưng có tính chất tương tự như hai dạng hành vi này.
– Xâm nhập chỗ ở của người khác mà không được sự đồng ý của chủ nhà hoặc người quản lí hợp pháp. Ví dụ: Xâm nhập chỗ ở của người khác bằng cách lợi dụng người chủ của căn nhà đi công tác, người phạm tội đã tự ý phá khoá vào ở…
Khi xem xét hành vi khách quan của tội này cần chú ý phân biệt với những hành vi khách quan sau để giúp cho việc định tội được chính xác:
– Nếu người phạm tội có những hành vi như dùng vũ lực, đe doạ sẽ dùng vũ lực hay có những thủ đoạn gian dối… nhằm chiếm đoạt nhà của người khác thì tuỳ thuộc vào hành vi khách quan mà người phạm tội đã thực hiện để định tội danh theo các điều tương ứng tại Chương XVI (Các tội xâm phạm sở hữu).
– Nếu người phạm tội có hành vi như phá khoá hoặc có những thủ đoạn khác như mượn chia khoá vào xem nhà chưa được bán cho ai rồi ở luôn thì không cấu thành tội xâm phạm chỗ ở của người khác mà cấu thành tội vi phạm các quy định về quản lí nhà ở (Điều 343 BLHS).
+ Dấu hiệu mặt chủ quan của tội phạm:
Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý. Chủ thể nhận thức hành vi xâm phạm chỗ ờ của người khác là trái pháp luật nhưng vẫn thực hiện. Xem thêm: Trường hợp nào thì công an được khám xét nhà ở của công dân ?
3. Hình phạt tội xâm phạm chỗ ở của người khác
Theo quy định tại Điều 158 – Bộ luật hình sự năm 2015 về tội xâm phạm chỗ ở của người khác như sau:
“ 1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây xâm phạm chỗ ở của người khác, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:
a) Khám xét trái pháp luật chỗ ở của người khác;
b) Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, gây sức ép về tinh thần hoặc thủ đoạn trái pháp luật khác buộc người khác phải rời khỏi chỗ ở hợp pháp của họ;
c) Dùng mọi thủ đoạn trái pháp luật nhằm chiếm, giữ chỗ ở hoặc cản trở trái phép, không cho người đang ở hoặc quản lý hợp pháp chỗ ở được vào chỗ ở của họ;
d) Tự ý xâm nhập chỗ ở của người khác mà không được sự đồng ý của chủ nhà hoặc người quản lý hợp pháp.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Phạm tội 02 lần trở lên;
d) Làm người bị xâm phạm chỗ ở tự sát;
đ) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
– Khung một (khoản 1)
Có mức hình phạt là phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm. Được áp dụng trong trường hợp phạm tội có đủ dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội này nêu ở mặt khách quan.
– Khung hai (khoản 2)
Có mức phạt tù từ một năm đến ba năm. Được áp dụng đối với một trong các hành vi phạm tội sau đây:
+ Phạm tội có tổ chức. Được hiểu là trường hợp phạm tội có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người (đồng phạm) cùng thực hiện tội phạm.
+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn.
+ Gây hậu quả nghiêm trọng (xem giải thích tương tự ở tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật).
– Hình phạt bổ sung (khoản 3)
Ngoài việc phải chịu một trong các hình phạt chính như nêu trên, tuỳ từng trường hợp cụ thể, người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm.
4. Tìm hiểu chế định về tội xâm phạm chỗ ở trước đây
Điều 124, Bộ luật hình sự năm 1999 (Bộ luật hình sự sửa đổi năm 2009) quy định tội xâm phạm chỗ ở của công dân
1. Người nào khám xét trái pháp luật chỗ ở của người khác, đuổi trái pháp luật người khác khỏi chỗ ở của họ hoặc có những hành vi trái pháp luật khác xâm phạm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của công dân, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến ba năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm.
Dấu hiệu pháp lý của tội xâm phạm chỗ ở của công dân (điều 124 BLHS):
+ Khách thể của tội phạm:
Chỗ ở của công dân là nơi đang có người ở hợp pháp. Có thể đó là nơi ở thường xuyên lâu dài hay tạm trú, có thể là nơi ở cố định hoặc di động, là một tòa nhà gồm cả sân và vườn phụ hay chỉ là một căn phòng hoặc một phần của một phòng, không kể là nhà thuộc sở hữu của họ hay thuê, mượn hoặc ở nhờ. Chỗ ở hợp pháp được cơ quan hoặc chính quyền địa phương thừa nhận. Đối với tội này, tội phạm xâm phạm quyền bất khả xâm phạm chỗ ở của công dân đồng thời xâm phạm những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về khám xét chỗ ở, địa điểm; xâm phạm trật tự, an toàn xã hội.
+ Mặt khách quan của tội phạm:
Mặt khách quan của tội phạm được thể hiện ở hành vi khám xét trái pháp luật chỗ ở của người khác, đuổi trái pháp luật người khác ra khỏi chỗ ở của họ hoặc có những hành vi trái pháp luật khác xâm phạm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của công dân.
Khám xét trái pháp luật chỗ ở của người khác là hành vi của người không có thẩm quyền, nhiệm vụ nhưng vì động cơ riêng tư đã tự ý vào lục soát, khám xét chỗ ở của người khác; hoặc hành vi của người có thẩm quyền, nhiệm vụ khám chỗ ở nhưng không chấp hành đúng những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về căn cứ, thẩm quyền ra lệnh, tiến hành khám xét,…
Ví dụ: Anh H nợ tiền của bà B và bỏ trốn khỏi địa phương. Ngày 20/08 bà B nhận được tin anh H đang trốn ở nhà chị N (chị gái của H) ở cùng địa phương. Bà B đã cùng với hai con trai của mình là T và C đến nhà chị N để tìm anh H. Tuy nhiên khi đến nơi, chị N khóa cửa ngoài, không cho mẹ con bà B vào nhà đồng thời khẳng định H không có ở nhà chị. Mẹ con bà B không tin nên đã lấy xà ben phá cửa nhà chị N, xông vào trong nhà lục lọi khắp nhà chị N để tìm H nhưng không thấy.
Đuổi trái pháp luật người khác ra khỏi chỗ ở của họ là hành vi dùng vũ lực hoặc thủ đoạn bất kỳ buộc người khác phải rời chỗ ở của họ một cách miễn cưỡng, trái với ý muốn của họ, ngoại trừ trường hợp cưỡng chế để thi hành một quyết định hợp pháp về nhà ở như cưỡng chế để thi hành bản án dân sự chia tài sản thừa kế hoặc quyết định niêm phong của Ngân hàng để yêu cầu thanh toán nợ.
Ví dụ: Ông H và bà C tranh chấp về quyền sở hữu căn nhà số 53 phố M và khởi kiện ra Tòa án. Theo bản án của Tòa án thì quyền sở hữu căn nhà trên thuộc về bà C. Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, bà C không làm đơn đề nghị cơ quan thi hành án thi hành bản án mà thuê L và S cầm côn, gậy cùng một số thanh niên xông vào đánh ông H và người ông, buộc gia đình ông phải chuyển đồ đạc ra khỏi nhà.
Hành vi trái pháp luật khác xâm phạm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của công dân như lẫn chiếm chỗ ở của công dân, lợi dụng chủ vằng nhà đã phá khóa vào ở không được phép của chủ nhà,…
+ Chủ thể của tội phạm:
Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên. Một số trường hợp chủ thể là người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để phạm tội, đây là tình tiết tăng nặng, định khung.
+ Mặt chủ quan của tội phạm:
Tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý. Động cơ không phải là dấu hiệu bắt buộc.
5. Những trường hợp pháp luật cho phép khám xét chỗ ở của công dân
Khám xét chỗ ở theo qui định Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 sự gồm Điều 140 – căn cứ khám chỗ ở của công dân; Điều 141 – thẩm quyền ra lệnh khám xét chỗ ở của công dân; Điều 143 – Nội dung khám chỗ ở của công dân.
Khám xét chỗ ở theo quy định của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, gồm: Điều 49 – Khám nơi cất giấu tang vật phương tiện; Điều 45 – thẩm quyền khám xét nơi cất giấu tang vật phương tiện.
Như vậy, khám xét chỗ ở của công dân ngoài những quy định pháp luật nêu trên, được coi là khám xét trái pháp luật.
Tội phạm hoàn thành kể từ khi quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của công dân bị xâm hại, không kể mức độ gây hại nhiều hay ít. Nếu chỗ ở của công dân chưa bị xâm phạm thì không cấu thành tội này.
Ví dụ: Người có thẩm quyền ký quyết định trái pháp luật nhưng chưa thực hiện hoặc chuẩn bị kế hoạch, công cụ phương tiện để đuổi người khác đi chiếm đoạt nhà của họ, nhưng chưa thực hiện… các hành vi này chưa cấu thành tội xâm phạm chỗ ở của công dân.
Trân trọng./.