1. Án treo là gì ?
Án treo là chế định pháp lí hình sự ra đời rất sớm, xuất hiện cùng với sự ra đời và phát triển của luật hình sự Việt Nam. Theo các văn bản pháp luật hình sự ở nước ta từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, án treo đã được ghi nhận tại Điều 10 Sắc lệnh số 21/SL ngày 14/02/1946 về tổ chức toà án quân sự. Điều 10 Sắc lệnh 21/SL quy định:
“Khi phạt tù, toà án có thể cho tội nhân được hưởng án treo nếu có những lí do đáng khoan hồng”.
Với quy định này, án treo được hiểu là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng án treo, đã có thời gian chúng ta coi án treo là hình phạt nhẹ hom hình phạt tù. Điều này được khẳng định tại Thông tư của Toà án nhân dân tối cao số 19/TATC ngày 2/10/1974:
“Án treo phải được xem là hình thức xử lí nhẹ hơn tù giam”.
Theo Bộ luật hiện nay, án treo không phải là hình phạt mà chỉ là biện pháp miễn chấp hành hĩnh phạt tù có điều kiện. Nhằm hạn chế sự lạm dụng chế định án treo và đảm bảo cho án treo được áp dụng trên thực tế thực sự là biện pháp khoan hồng, thực hiện chính sách nhân đạo và phân hoá trong xử lí người phạm tội, quy định về án treo được sửa đổi theo hướng thu hẹp dần phạm vi áp dụng án treo và tăng các điều kiện thử thách của án treo. Khoản 1 Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định về án treo như sau:
“Khi xử phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì toà án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ 01 năm đến 05 năm và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật thi hành án hình sự”.
Án treo thể hiện tính nhân đạo của luật hình sự Việt Nam, có tác dụng khuyến khích người bị kết án tự tu dưỡng và lao động tại cộng đồng với sự giúp đỡ tích cực của xã hội cũng như gia đình đồng thời cảnh báo họ nếu phạm tội mới trong thời gian thử thách thì buộc phải chấp hành hình phạt tù đã tuyên.
2. Lịch sử hình thành chế định án treo
Khi cho người phạm tội được hưởng án treo, tòa án ấn định thời gian thử thách từ 1 năm đến 5 năm. Đây là thời gian người bị án treo được giao cho cơ quan hoặc tổ chức nơi người đó làm việc hoặc thường trú để theo dõi giáo dục. Thời gian thử thách là ràng buộc pháp lí đối với người bị kết án và để cơ quan có trách nhiệm kiểm tra kết quả tự cải tạo của người này. Thời gian thử thách không được ngắn hơn thời hạn của hình phạt tù đã tuyên và trong thực tế thường là dài hơn. Để khuyến khích người bị kết án cải tạo tốt, luật hình sự cho phép tòa án được rút ngắn thời gian thử thách sau khi họ đã chấp hành được một nửa thời gian đó trên cơ sở đề nghị của cơ quan, tổ chức đang giám sát, giáo dục người bị án treo.
Người được hưởng án treo không được miễn mà buộc phải chấp hành hình phạt tù đã tuyên nếu trong thời gian thử thách lại phạm tội mới. Trong trường hợp này, tòa án tổng hợp hình phạt tù của bản án cho hưởng án treo với hình phạt mới tuyên theo quy định của luật hình sự về tổng hợp hình phạt của nhiều bản án.
Việc quy định án treo trong luật hình sự Việt Nam là sự thể hiện nguyên tắc “Nghiêm trị kết hợp với khoan hồng”, “Trừng trị kết hợp với giáo dục, cải tạo”. Án treo có tác dụng tạo điều kiện, khuyến khích người phạm tội tự giác cải tạo trong môi trường không bị cách li khỏi xã hội dưới sự giám sát của cơ quan hoặc tổ chức. Do có tính tích cực như vậy nên án treo được quy định trong luật hình sự của nhiều nước. Ở Việt Nam, án treo được quy định ngay từ những năm đầu của Nhà nước dân chủ nhân dân và tồn tại cho đến ngày nay. Trong quá trình đó, các quy định về án treo cũng đã có sự thay đổi để ngày càng hoàn thiện, đáp ứng được yêu cầu của đấu tranh phòng chống tội phạm. Văn bản pháp luật đầu tiên quy định về án treo là Sắc lệnh số 21 năm 1946. Trước khi có Bộ luật hình sự đầu tiên (Bộ luật hình sự năm 1985, sau đó được Bộ luật hình sự năm 1985 sửa đổi, bổ sung năm 1991), án treo có thời gian được coi là một hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù trong hệ thống hình phạt. Trong Bộ luật hình sự năm 1985 và Bộ luật hình sự năm 1999 (Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009), án treo đều được xác định là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điểu kiện. Điều kiện cho hưởng án treo cũng như điều kiện thử thách theo Bộ luật hình sự năm 1999 chặt chẽ hơn so với Bộ luật hình sự năm 1985 (mức phạt tù tối đa từ 5 năm rút xuống còn 3 năm; điều kiện không phạm tội mới thay thế cho điều kiện không phạm tội mới do cố ý hoặc không phạm tội mới do vô ý và bị phạt tù). Việc quy định các điều kiện cho hưởng án treo chặt chẽ hơn nhằm hạn chế sự lạm dụng của người áp dụng luật.
Hiện nay, các quy định về án treo đang được áp dụng bởi Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
3. Điều kiện để được hưởng án treo:
Căn cứ theo điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 được hướng dẫn tại Điều 2 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP có quy định các điều kiện để hưởng án treo như sau:
Điều 2. Điều kiện cho người bị kết án phạt tù được hưởng án treo
Người bị xử phạt tù có thể được xem xét cho hưởng án treo khi có đủ các điều kiện sau đây:
1. Bị xử phạt tù không quá 03 năm.
2. Có nhân thân tốt.
Được coi là có nhân thân tốt nếu ngoài lần phạm tội này, người phạm tội luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú, nơi làm việc.
Đối với người đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích, người bị kết án nhưng đã được xóa án tích, người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị xử lý kỷ luật mà thời gian được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 06 tháng, nếu xét thấy tính chất, mức độ của tội phạm mới được thực hiện thuộc trường hợp ít nghiêm trọng hoặc người phạm tội là đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án và có đủ các điều kiện khác thì cũng có thể cho hưởng án treo.
3. Có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
Trường hợp có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì số tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phải nhiều hơn số tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự từ 02 tình tiết trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
4. Có nơi cư trú rõ ràng hoặc nơi làm việc ổn định để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giám sát, giáo dục.
Nơi cư trú rõ ràng là nơi tạm trú hoặc thường trú có địa chỉ được xác định cụ thể theo quy định của Luật Cư trú mà người được hưởng án treo về cư trú, sinh sống thường xuyên sau khi được hưởng án treo.
Nơi làm việc ổn định là nơi người phạm tội làm việc có thời hạn từ 01 năm trở lên theo hợp đồng lao động hoặc theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
5. Xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù nếu người phạm tội có khả năng tự cải tạo và việc cho họ hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
4. Điều kiện thử thách khi được hưởng án treo ?
Điều kiện thử thách của án treo là nghĩa vụ luật định mà người được hưởng án treo phải thực hiện trong thời gian thử thách.
Điều kiện thử thách cùa án treo là thước đo về sự tiến bộ của người được hưởng án treo, đảm bảo người đó thực sự xứng đáng với sự khoan hồng của Nhà nước.
Theo quy định tại Điều 65 BLHS, trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo phải tuân thủ 2 điều kiện:
– Người được hưởng án treo phải thực hiện các nghĩa vụ theo quy định tại Điều 64 Luật thi hành án hình sự năm 2012 như: chấp hành nghiêm chỉnh cam kết của mình trong việc tuân thủ pháp luật, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân, nội quy, quy chế của noi cư trú, làm việc; tích cực tham gia lao động, học tập; chấp hành đầy đủ các hình phạt bổ sung, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại; phải có mặt theo yêu cầu của uỷ ban nhân dân cấp xã được giao giám sát, giáo dục. Trường hợp người được hưởng án treo đi khỏi nơi cư trú từ 01 ngày trở lên thì phải khai báo tạm vắng; 03 tháng một lần trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo phải nộp bản tự nhận xét về việc chấp hành pháp luật cho người trực tiếp giám sát, giáo dục; trường hợp đi khỏi nơi cư trú từ 03 tháng đến 06 tháng thì phải có nhận xét của công an cấp xã nơi người đó đến lưu trú hoặc tạm trú để trình với uỷ ban nhân dân cấp xã được giao giám sát, giáo dục người đó.
– Người được hưởng án treo không được phạm tội mới trong thời gian thử thách (bất kể tội mới là tội gì, lỗi cố ý hay lỗi vô ý vă tội mới bị toà án áp dụng loại hình phạt nào).
Khi người được hưởng án treo tuân thủ các điều kiện nêu trên thì họ được miễn chấp hành hình phạt tù đã tuyên.
5. Hậu quả pháp lí của việc vi phạm điều kiện thử thách của án treo
Nếu người được hưởng án treo vi phạm điều kiện thử thách thì toà án sẽ xem xét, cân nhắc lại quyết định miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện tuỳ theo mức độ vi phạm của người đó:
– Trường hợp trong thời gian thử thách mà người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự từ 02 lần trở lên thì toà án có thể buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Đây là quy định mới của BLHS năm 2015. nhằm tăng cường hiệu quả răn đe của các điều kiện thử thách của án treo, tăng cường trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người được hưởng án treo, cũng như sự tuân thủ pháp luật ở người được hưởng án treo;
– Trường họp trong thời gian thử thách mà người được hưởng án treo thực hiện hành vi phạm tội mới thì toà án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 BLHS.
Không coi là vi phạm điều kiện thử thách của án treo nếu trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo bị xét xử về tội đã thực hiện trước khi có bản án cho hưởng án treo. Trong trường hợp này, toà án xét xử, quyết định hình phạt đối với tội phạm đó và không cho hưởng án treo một lần nữa. Người phạm tội đồng thời phải chấp hành hai bản án. Việc thi hành án trong trường hợp này do các cơ quan được giao trách nhiệm thi hành án hình sự phối hợp thực hiện theo quy định tại Điều 5 Luật thi hành án hình sự.