Luật sư 24h Bào Chữa quận Bình Tân TPHCM: Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

LSVN) – Bào chữa là một trong những quyền cơ bản của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được ghi nhận trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Việc pháp luật quy định như trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 được xem là bước “đột phá” để tháo gỡ những bất cập so với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, đặc biệt là các cơ chế bảo đảm quyền của những người tham gia tố tụng, nhất là bảo đảm quyền bào chữa của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Tuy nhiên, đến nay thực tế cho thấy giữa quy định và thực tiễn vẫn còn những cái “vênh” nhất định cần tiếp tục hoàn thiện Bộ luật Tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật có liên quan về quyền bào chữa.

Quyền bào chữa được hiểu như thế nào?

Trong khoa học pháp luật tố tụng hình sự, khái niệm quyền bào chữa, bảo đảm quyền bào chữa còn có những ý kiến khác nhau về đối tượng có quyền bào chữa, nội dung, giới hạn, phạm vi, mục đích và bản chất của quyền bào chữa. Các học giả nước ngoài có ý kiến: “Quyền bào chữa là tổng hòa các hành vi tố tụng hướng tới bãi bỏ sự buộc tội và xác định bị can không có lỗi hoặc nhằm làm giảm nhẹ trách nhiệm của bị can”[1] “Bào chữa trong tố tụng hình sự không chỉ là tổng hòa các hành vi tố tụng hướng tới việc bác bỏ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm mà còn là tổng hòa các mối quan hệ tố tụng nhằm tới mục đích làm cho tình trạng của người bị buộc tội tốt hơn và bảo đảm các quyền và lợi ích của người đó trong vụ án”[2]. Cũng theo xu hướng này, có ý kiến cho rằng: “Trong tố tụng hình sự, bị can, người bị tình nghi cũng như những công dân khác, trong đó có cả người bị hại đều cần có sự bảo vệ các lợi ích có thể bị xâm phạm”[3].

Theo các ý kiến trên, có thể khái quát: Thứ nhất, quyền bào chữa hướng tới ba mục đích: bãi bỏ sự buộc tội; làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp của bị can kể cả khi các quyền và lợi ích ấy không trực tiếp liên quan tới việc làm giảm nhẹ trách nhiệm của bị can trong vụ án; Thứ hai, đối tượng của quyền bào chữa có thể là: chỉ là bị can; chỉ là bị cáo; vừa là bị can vừa là bị cáo; người bị nghi thực hiện tội phạm; những công dân khác trong đó có cả người bị hại; người bị truy cứu trách nhiệm hình sự (người đang bị điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án).

Theo Từ điển Tiếng Việt thì: “Bào chữa là dùng lý lẽ và chứng cứ để bênh vực cho đương sự nào đó thuộc vụ án hình sự hay dân sự trước toà án hoặc cho một việc làm đang bị lên án”[4] còn “Tự bào chữa là tự mình thực hiện…”[5].

“Quyền bào chữa là tất cả các quyền mà pháp luật quy định để chống lại sự buộc tội”[6]. “Quyền bào chữa là tổng hợp các hành vi tố tụng của bị can, bị cáo trên cơ sở phù hợp với các quy định của pháp luật nhằm đưa ra chứng cứ để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước các cơ quan tiến hành tố tụng”[7]. “Quyền bào chữa là tổng hợp các quyền tố tụng tạo khả năng cho bị can, bị cáo bào chữa về hành vi do mình thực hiện đã bị buộc tội và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp khác”[8]. “Trong tố tụng hình sự, quyền bào chữa chỉ xuất hiện ở chỗ mà ở đó có sự buộc tội và quyền bào chữa thuộc về người nào khi người đó bị buộc tội”; “Buộc tội trong tố tụng hình sự là hành vi của cơ quan tiến hành tố tụng nhằm xác định trách nhiệm hình sự đối với người bị buộc tội trên cơ sở các chứng cứ về vụ án hình sự đã xác định được tại thời điểm đó. Do giá trị pháp lý của các chứng cứ khác nhau nên giá trị của sự buộc tội cũng khác nhau trong mỗi giai đoạn và tất yếu hậu quả pháp lý của sự buộc tội của mỗi cơ quan tiến hành tố tụng cũng khác nhau. Hậu quả pháp lý của sự buộc tội do cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can là bị can đó bị điều tra về hình sự và bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự. Hậu quả pháp lý của sự buộc tội của viện kiểm sát bằng cáo trạng là bị can được chuyển sang tòa án và có thể trở thành bị cáo để xét xử tại phiên tòa. Hậu quả pháp lý của sự buộc tội của tòa án bằng bản án kết tội là bị cáo trở thành người bị kết án và phải chịu hình phạt hoặc các biện pháp khác thay thế cho hình phạt. Sự buộc tội này còn tồn tại cho đến khi người bị kết án chấp hành xong hình phạt hoặc được áp dụng các biện pháp miễn chấp hành hình phạt hoặc được đại xá”; “Sự buộc tội đôi khi xuất hiện cả khi chưa có quyết định khởi tố bị can trong trường hợp có người bị tạm giữ và kết thúc khi tố tụng hình sự kết thúc”[9].

Tổng hợp các ý kiến trên thì quyền bào chữa được xác định:

– Hành vi thực hiện quyền (tự) bào chữa là hành động chứ không phải là không hành động; quyền (tự) bào chữa chỉ thuộc về người nào đó khi người đó bị buộc tội.

– Người bị bắt, khám xét khẩn cấp, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án và về người bào chữa. Giới hạn của sự buộc tội và quyền (tự) bào chữa: sự buộc tội và quyền (tự) bào chữa xuất hiện sớm nhất khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bắt, khám xét khẩn cấp; sự buộc tội kết thúc chậm nhất, khi kiểm sát viên đối đáp xong với bị cáo, người bào chữa tại phiên tòa trong phần tranh luận; sự (tự) bào chữa kết thúc chậm nhất khi người bị kết án trình bày tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho mình tại phiên tòa giám đốc thẩm hoặc những tình tiết mới không có tội làm thay đổi cơ bản nội dung của vụ án. Bản chất của tự bào chữa là bảo vệ mình khỏi sự buộc tội, kết tội một cách oan, sai của các cơ quan có thẩm quyền tố tụng hình sự bằng cách đưa ra những lý lẽ, chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Từ đó, có khái niệm khoa học: Quyền bào chữa là tổng hợp các quyền của người bị bắt, khám xét khẩn cấp, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án, người bào chữa nhằm bảo vệ đương sự khỏi sự buộc tội, kết tội oan, sai của cơ quan có thẩm quyền tố tụng hình sự bằng hành động đưa ra những lý lẽ, chứng cứ xác định vô tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Thực trạng quyền bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay

Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên ghi nhận nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử. Cụ thể, khoản 4, Ðiều 31, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điểu tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ Luật sư hoặc người khác bào chữa”. Quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là một quyền hiến định được tất cả các bản Hiến pháp của nước ta ghi nhận và được cụ thể hóa trong Bộ luật Tố tụng hình sự (Bộ luật Tố tụng hình sự). Vì vậy, việc bảo đảm các quyền này được thực thi một cách đầy đủ là yêu cầu tất yếu trong quá trình cải cách tư pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

Mặt khác, tại khoản 5, Ðiều 103, Hiến pháp quy định: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”. Quy định này là nền tảng pháp lý cơ bản để nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa và bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo được thực thi trên thực tế. Ðồng thời đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ với viện kiểm sát nhân dân, hướng tới nền tố tụng tranh tụng công khai, bình đẳng, góp phần giải quyết vụ án khách quan, đúng sự thật, toàn diện và triệt để.

Trên nền tảng nguyên tắc Hiến định, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã bổ sung nguyên tắc “Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” (Điều 26). Đây là quy định mới, căn cứ pháp lý quan trọng để bảo đảm quyền bào chữa nói riêng và quyền công dân, quyền con người nói chung theo Hiến định, thể hiện cụ thể ở các nội dung sau: “Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, điều tra viên, kiểm sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị buộc, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án do viện kiểm sát chuyển đến tòa án để xét xử phải đầy đủ và hợp pháp. Phiên tòa xét xử vụ án hình sự phải có mặt đầy đủ những người theo quy định của Bộ luật này, trường hợp vắng mặt phải vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan hoặc trường hợp khác do Bộ luật này quy định. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình và tranh tụng dân chủ, bình đẳng trước tòa án. Mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật Hình sự để xác định tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo, xử lý vật chứng và những tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa. Bản án, quyết định của tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa”. Như vậy có thể thấy Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định rõ mối quan hệ, vị trí giữa những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án là bình đẳng, đây là tiền đề quan trọng để các chủ thể thực hiện hoạt động tranh tụng bảo vệ quan điểm, quyền lợi của mình khi tham gia tố tụng. Chỉ trên cơ sở bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ thì hoạt động tranh tụng mới bảo đảm chất lượng, hiệu quả và thực thi.

Theo đó, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã dành một mục lớn để quy định về hoạt động tranh tụng tại phiên tòa (Mục 5, Chương XXI – Thủ tục tranh tụng tại phiên tòa). Trong đó, quy định cụ thể từ trình tự phát biểu tranh luận, đến phần đối đáp giữa người tham gia tố tụng (người bào chữa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác) với kiểm sát viên giữ quyền công tố, quy định cho phép bị cáo được nói lời sau cùng để tự bào chữa; trong chương này luật cũng quy định hội đồng xét xử không được hạn chế thời gian đối đáp, tranh luận giữa các bên.

Việc tôn trọng và thực hiện đúng các quy định của pháp luật về quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong đó có quyền của người bào chữa từ phía cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án là một bảo đảm quan trọng cho việc thực hiện quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Ðặc biệt việc thực hiện và bảo đảm tốt quy định về tranh tụng tại phiên tòa, kết quả tranh tụng là cơ sở để ra phán quyết là một biện pháp bảo đảm quan trọng không thể thiếu, là yêu cầu tất yếu của quá trình cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền con người nói chung và quyền bảo chữa nói riêng trong tố tụng hình sự.

Thực tiễn hệ thống pháp luật Việt Nam đã có những quy định khá đầy đủ, tương đối cụ thể và có hệ thống về quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo từ Hiến pháp đến Bộ luật Tố tụng hình sự và các đạo luật khác như Luật Tổ chức tòa án nhân dân, Luật Tổ chức viện kiểm sát nhân dân, Luật Luật sư, đến hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên, trên cơ sở các quy định và thực tiễn hành nghề Luật sư, chúng tôi nhận thấy vẫn có một số quy định mới chưa thực sự phù hợp và còn gây khó khăn trong quá trình thực hiện các quy định đó. Nói cách khác, dù Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã có các quy định mới bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, người bị tam giam, tạm giữ, tuy nhiên nếu áp dụng trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử thì các quy định này mới chỉ bảo đảm được một mức độ nhất định, và còn những vướng mắc, khó khăn trong quá trình áp dụng pháp luật.

Điển hình, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thể hiện bước tiến bộ trong quy định về quyền bào chữa. Đối với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, quyền bào chữa xuất hiện sớm nhất kể từ thời điểm một người bị tạm giữ (Điều 48), còn trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì quyền bào chữa của người bị buộc tội xuất hiện sớm hơn đó là kể từ thời điểm một người bị bắt (Điều 58 và Điều 74). Quy định này giúp bên bị “buộc tội” được bình đẳng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Khi một người bị bắt, sự xuất hiện của người bào chữa giúp họ ổn định tâm lý, kịp thời bảo vệ quyền lợi chính đáng, góp phần giúp cơ quan có thẩm quyền xử lý vụ án chính xác, tránh những sai sót có thể xảy ra. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã mở ra và ghi nhận việc bảo đảm quyền bào chữa cho người bị bắt được bảo đảm quyền bào chữa của mình nhưng trên thực tế, việc áp dụng quy định này gặp khó khăn nhất định. Thực tiễn hành nghề cho thấy, người bị bắt rất mong muốn được mời Luật sư để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình. Nhưng việc để liên lạc với Luật sư đã rất khó khăn, thậm chí khi người nhà, người thân thích của người bị bắt đến gặp Luật sư đề nghị Luật sư tham gia bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị bắt, Luật sư thực hiện các thủ tục để gặp và làm việc nhưng vẫn bị cơ quan điều tra từ chối. Đặc biệt là đối với những vụ án về ma túy, hoặc môi giới mại dâm… Rõ ràng, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã mở rộng quyền của người bị bắt để bảo đảm quyền bào chữa cho họ, tuy nhiên, chưa có cơ chế bảo đảm cho việc thực hiện này, vì trên thực tế còn gặp rất nhiều hạn chế do vẫn áp dụng theo kiểu tùy nghi, cảm tính.

Với quy định tại điểm i, khoản 2, Điều 60, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, bị can có quyền: “Đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa kể từ khi kết thúc điều tra khi có yêu cầu”. Quy định này là điểm mới quan trọng bảo đảm quyền cơ bản của bị can, bị cáo, là sự ghi nhận về mặt pháp lý để bị can, bị cáo thực hiện các quyền của mình một cách bình đẳng. Tuy nhiên, thực tiễn hành nghề Luật sư cho thấy, việc bị can, bị cáo được trình bày một cách bình đẳng diễn biến, các tình tiết khách quan của vụ án đã là điều rất khó khăn, có những vụ án, bị can, bị cáo được định hướng sẵn để có thể trả lời. Điều này xuất phát từ tâm lý hoang mang, lo sợ khi bị tạm giam, tạm giữ, nhưng một phần cũng xuất phát từ những hạn chế của các điều tra viên. Khi tham gia hỏi cung các bị cáo, Luật sư mang giấy trắng, bút viết để có thể ghi chép lại lời khai cũng bị điều tra viên xét hỏi, vậy cơ chế nào để bảo đảm cho các bị can, bị cáo thực hiện quyền “đọc, ghi chép bản sao tài liệu… khi có yêu cầu”? Thậm chí, Luật sư đề nghị được sao chụp các bút lục, lời khai trong quá trình điều tra nhưng cũng gặp không ít những khó khăn. Chúng tôi cho rằng, quy định này chỉ mang tính chất lý thuyết mà chưa thực sự áp dụng được trong thực tiễn hoặc nếu có thì cơ chế nào sẽ bảo đảm việc các bị can, bị cáo được thực hiện điều này.

Điều 305, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Chủ tọa phiên tòa phải hỏi kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng xem ai có yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng hoặc yêu cầu đưa thêm vật chứng và tài liệu ra xem xét hay không”. Quy định này nhằm bảo đảm sự bình đẳng trước tòa án giữa đại diện viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng trong việc giải quyết các yêu cầu, cung cấp nguồn chứng cứ cũng như đưa ra chứng cứ trực tiếp. Tuy nhiên, yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng hoặc yêu cầu đưa thêm vật chứng và tài liệu ra xem xét chỉ được giải quyết tại thủ tục bắt đầu phiên tòa nhưng lại không được quy định trong phần thủ tục tranh tụng tại phiên tòa. Như vậy, trong quá trình xét xử, sau khi kết thúc phần thủ tục tại phiên tòa mà người tham gia tố tụng muốn yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng hoặc đưa thêm vật chứng và tài liệu ra xem xét thì lại không có căn cứ để hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu. Trong một số trường hợp, hội đồng xét xử cũng xem xét và quyết định tạm dừng phiên tòa để thẩm tra, xem xét vật chứng hoặc xem xét yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng có phù hợp và cần thiết hay không? Điều này không những gây ra sự lãng phí về thời gian mà còn gây tâm lý không ổn định, bức xúc cho những người tham gia tố tụng. Thực tiễn xét xử cho thấy, trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa, khi phát hiện ra một số tình tiết mới (theo lời khai của những người tham gia tố tụng tại phiên tòa), Luật sư có kiến nghị đề xuất để triệu tập người làm chứng hoặc yêu cầu xem xét vật chứng mới nhưng hầu hết các trường hợp này đều bị hội đồng xét xử từ chối vì thấy rằng không cần thiết. Điều này không những ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện, trung thực và làm sáng tỏ bản chất của vụ án mà còn có thể ảnh hưởng trực tiếp đến việc “gỡ tội”, đến kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Vì vậy, yêu cầu đặt ra ở đây là cần quy định như thế nào để hội đồng xét xử sẽ chấp nhận yêu cầu của những người tham gia tố tụng và tiếp tục giải quyết vụ án, hay chỉ dừng lại ở quy định “bỏ lửng” khiến cho quyền bào chữa của bị cáo bị hạn chế?

Theo quy định hiện hành, thì việc xét hỏi tại phiên tòa được thực hiện chủ yếu bởi hội đồng xét xử. Việc xét hỏi nhằm làm rõ những tình tiết dùng làm chứng cứ để truy tố bị cáo lại không phải là nhiệm vụ chính của đại diện viện kiểm sát mà phụ thuộc vào hội đồng xét xử. Quy định như trên là chưa hợp lý, vì viện kiểm sát thực hiện chức năng buộc tội nên kiểm sát viên phải thực hiện việc xét hỏi để bảo vệ sự buộc tội đó, người bào chữa thực hiện chức năng gỡ tội, nên họ được thực hiện việc xét hỏi để bào chữa cho bị cáo. Trong khi đó, tòa án đóng vai trò “trung gian”, chỉ xét xử và ra phán quyết thông qua đánh giá khách quan và căn cứ vào quá trình tranh tụng tại phiên tòa. Vì vậy, trách nhiệm xác định các tình tiết buộc tội thuộc về viện kiểm sát; trách nhiệm xác định các tình tiết gỡ tội thuộc về người bào chữa cho bị cáo; trách nhiệm xác định đầy đủ, khách quan các tình tiết buộc tội cũng như gỡ tội thuộc về tòa án. Cho nên, khi tiến hành thủ tục xét hỏi, hội đồng xét xử chỉ lắng nghe và chủ tọa phiên tòa chỉ giữ quyền điều hành phiên tòa, quyết định cho ai hỏi ai, duy trì thời gian hỏi và có quyền cắt các ý kiến các câu hỏi không đúng trọng tâm. Hội đồng xét xử không được có những lời lẽ khẳng định hay phủ định bất cứ một vấn đề nào mà các bên tham gia tranh tụng nêu ra, cũng như không được đánh giá, nhận xét đúng sai ngay tại phiên tòa. Bởi lẽ, chức năng của tòa án là xét xử thông qua việc xét hỏi, nghe các bên tranh luận, hội đồng xét xử sẽ đưa ra phán quyết bằng bản án nêu rõ hành vi của bị cáo có phạm tội hay không phạm tội, hình phạt và các biện pháp tư pháp khác. Việc hội đồng xét xử thể hiện quan điểm ngay tại phiên tòa sẽ ảnh hưởng đến việc tranh tụng giữa các bên, làm giảm hiệu quả tranh luận. Thực tiễn xét xử cho thấy, hội đồng xét xử tập trung làm rõ các tình tiết có trong hồ sơ vụ án, sau đó, sẽ hỏi kiểm sát viên và các Luật sư có cần hỏi thêm gì không? Sau đó hội đồng xét xử sẽ điều hành và tiếp tục phiên tòa. Có những vụ án, hội đồng xét xử đã hỏi hết, kiểm sát viên thậm chí không hỏi thêm câu gì để làm rõ việc buộc tội của mình có đúng, có căn cứ hay không? Như vậy, quy định này, chúng tôi cho rằng chưa thực sự hợp lý để bảo đảm nguyên tắc tranh tụng và bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo. Với vai trò là “trung gian”, chúng tôi cho rằng, cần quy định để kiểm sát viên, người bào chữa thực hiện chức năng “buộc tội”, “gỡ tội” một cách khách quan và toàn diện hơn nữa.

Rất quan trọng và liên quan đến quyền bào chữa, “quyền im lặng” của người bị tạm giữ, tạm giam là “quyền con người” nhằm thể hiện sự đối xử công bằng giữa điều tra viên, các cơ quan tiến hành tố tụng có nhiều phương tiện, biện pháp đối với người bị tạm giữ, tạm giam. Khái niệm “quyền im lặng” được hiểu là: “Quyền không có một hành động gì trước sự việc đáng lẽ phải có thái độ, phải có phản ứng”. Im lặng không chỉ không nói, không lên tiếng mà còn không hành động gì. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 mặc dù chưa trực tiếp quy định quyền im lặng nhưng đã ghi nhận quyền này thông qua một số quy định tại điểm e, khoản 1, Điều 58; điểm c, khoản 2, Điều 59; điểm d, khoản 1, Điều 60; điểm h, khoản 2, Điều 61. Theo đó, các điều khoản này lần lượt ghi nhận: người bị bắt giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị tạm giữ, bị can và bị cáo đều có quyền trình bày ý kiến, trình bày lời khai, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội. Như vậy, có thể hiểu người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự chủ về việc khai báo. Những gì bất lợi, họ có thể không buộc phải khai báo cũng như không buộc phải nhận mình có tội trước cơ quan tiến hành tố tụng hình sự. Thậm chí, ngay tại phiên tòa, bị cáo cũng được bảo đảm thực hiện quyền này. Một số vụ án xét xử gần đây đã thể hiện “quyền im lặng” một cách hiệu quả. Tuy nhiên, thực tiễn hành nghề cho thấy, người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo “hầu hết” không được phổ biến quyền này và không được sử dụng quyền im lặng.

Một số kiến nghị, đề xuất

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã chuyển hóa tinh thần của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, những quy định mới về quyền bào chữa như đã đề cập là bước tiến dài làm cơ sở cho việc thực hiện công cuộc cải cách tư pháp, bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Tuy vậy, giữa quy định và thực tiễn vẫn còn những cái “vênh” nhất định. Nhằm tiếp tục hoàn thiện Bộ luật Tố tụng hình sự liên quan đến quyền bào chữa, chúng tôi xin đề xuất một số vấn đề như sau:

Thứ nhất, đối với việc ghi nhận bảo đảm quyền bào chữa cho người bị bắt, cần bổ sung, mở rộng thêm điều kiện để được mời hoặc nhờ người bào chữa hoặc quy định bổ sung cơ chế bảo đảm cho người bị bắt thực hiện quyền này.

Thứ hai, đối với quy định triệu tập người làm chứng hoặc yêu cầu đưa thêm vật chứng và tài liệu ra xem xét, cần quy định đầy đủ hơn trong suốt quá trình diễn ra xét xử. Ở đây, mới chỉ dừng lại ở việc thủ tục bắt đầu phiên tòa, vì vậy, cần bổ sung theo hướng trong suốt quá trình xét xử tại phiên tòa, nếu lời khai của bị cáo mâu thuẫn, có xuất hiện một số tình tiết mới chưa thể hiện trong hồ sơ vụ án, thì cả bên buộc tội và bên gỡ tội có quyền đề nghị triệu tập thêm người làm chứng hoặc đưa ra vật chứng để xem xét toàn diện và khách quan hơn. Các yêu cầu liên quan đến triệu tập thêm người làm chứng, yêu cầu đưa thêm vật chứng và tài liệu ra xem xét có ảnh hưởng rất lớn đến việc xác định sự thật khách quan của vụ án.

Thứ ba, trình tự xét hỏi quy định tại Điều 307, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cần sửa đổi theo hướng: kiểm sát viên xét hỏi trước, tiếp theo là người bào chữa, người bảo vệ quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ án tiến hành xét hỏi. Kiểm sát viên hỏi về các tình tiết liên quan đến việc buộc tội; người bào chữa hỏi về các tình tiết liên quan đến việc gỡ tội; người bảo vệ quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ án mà mình bảo vệ. Nếu thấy tình tiết có mâu thuẫn thì hội đồng xét xử có quyền trực tiếp xét hỏi để làm rõ mâu thuẫn giữa các tình tiết.

Thứ tư, nghiên cứu và ban hành các văn bản pháp luật nhằm thực hiện các quy định về chỉ định người bào chữa, ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc hỏi cung bị can, sao chép, số hóa tài liệu trong hồ sơ  vụ án hình sự, giám định tư pháp và hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

Thứ năm, bổ sung quy định khi phát hiện quá trình khởi tố, điều tra, truy tố không bảo đảm quyền bào chữa của người bị bắt, bị tạm giữa, bị can thì tòa án không mở phiên tòa, trả hồ sơ để viện kiểm sát khắc phục vi phạm (Điều 280 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015).

Thứ sáu, quy định cụ thể trách nhiệm của chủ tọa phiên tòa phải bảo đảm quyền của bị cáo và người bào chữa, người tham gia tố tụng khác có quyền trình bày ý kiến, đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận để đối đáp với kiểm sát viên về những chứng cứ của vụ án.

Thứ bảy, cần bổ sung quy định trách nhiệm của hội đồng xét xử phải lắng nghe, ghi nhận đầy đủ ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác để đánh giá khách quan, toàn diện sự thật của vụ án. Trường hợp không chấp nhận ý kiến của những người tham gia phiên tòa thì hội đồng xét xử phải nêu rõ lý do và được ghi trong bản án.

 

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *